Nhân ngày thơ Việt Nam lần thứ 22: “Hội tam anh” và những đóng góp cho phong trào Thơ mới

VHO - Nhân Ngày thơ Việt Nam diễn ra vào Rằm tháng Giêng Giáp Thìn (24.2), người yêu thơ lại nhớ về những đóng góp của phong trào Thơ mới, trong đó có nhóm “Hội tam anh”.

Nhân ngày thơ Việt Nam lần thứ 22: “Hội tam anh” và những đóng góp cho phong trào Thơ mới - Anh 1

 Người yêu thơ đến với Ngày thơ Việt Nam không chỉ được ngắm nhìn các kỷ vật mà còn được giao lưu, tìm hiểu nhiều hơn về thơ và thi nhân đất Việt Ảnh: INTERNET

Hơn 70 năm trước, Thơ mới đã có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển của nền văn học trước Cách mạng Tháng Tám của đất nước. Các thi sĩ thời ấy đã mang đến cho bạn đọc một tiếng nói mới, phản ánh khá trung thực tâm trạng của tầng lớp thanh niên tiểu tư sản trong cuộc sống có nhiều đau buồn, trăn trở, bi phẫn và đôi khi bế tắc trước hiện trạng xã hội thuở bấy giờ.

Trong số 46 gương mặt thi sĩ được đưa vào Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân, có ba người bạn thơ cùng chí hướng, rất thân thiết với nhau. Họ kết thành “Hội tam anh” hay còn có một tên gọi khác là nhóm Áo bào gốc liễu, gồm: Nguyễn Bính, Thâm Tâm, Trần Huyền Trân.

“Hội tam anh” hiện diện trong Thi nhân Việt Nam rất khác nhau. Nguyễn Bính được chọn tới 8 bài thơ. Thâm Tâm chỉ duy nhất bài Tống biệt hành. Trần Huyền Trân không có bài nào, chỉ có một số đoạn thơ được trích trong lời bình của Hoài Thanh, với lời kết đầy ấn tượng: “Viết đến đây tôi đã định khép cửa lại, dẫu có thiên tài đến gõ cũng không mở. Thế mà lại phải mở cửa để đón một nhà thơ nữa! Trần Huyền Trân... Thơ Trần Huyền Trân không xuất sắc lắm nhưng sau khi đọc hoài những câu rặt anh anh em em tôi đã tìm thấy ở đây cái thú của người đi đổi gió” (Hoài Thanh - Hoài Chân. Thi nhân Việt Nam, 1988, tr.367). Ba người bạn thân có hoàn cảnh sống giống nhau, có quan niệm thẩm mỹ, xu hướng nghệ thuật khá tương đồng. Bằng mảng tác phẩm mang cốt cách độc đáo riêng, “Hội tam anh” đã góp phần làm nên những sắc màu phong phú, đa dạng trong phong trào Thơ mới 1932-1941.

Trong Tuyển tập Nguyễn Bính, khi so sánh ba nhà thơ thuộc “Hội tam anh”, Tô Hoài xác nhận: “Ở trường thơ ấy, mỗi người đã thể hiện một phong cách độc đáo. Thâm Tâm và Trần Huyền Trân sừng sững và cũng cô đơn như gốc đa, như con đò lẻ”. Cái chung giữa họ là tâm hồn tù túng, bế tắc. Nhưng cái riêng giữa họ lại mỗi người một vẻ khác nhau.

Đọc thơ Trần Huyền Trân, ta hay gặp những tâm trạng cảm khái: Nhớ nhau vảy bút làm mưa gió/ Cho đống xương đời được nở hương (Lưu biệt); hay Nhớ người, nhạt thếch rượu đời/ Tay vo chỏm tóc, ta ngồi ta ca/ Khóc nhau, ném chén tan tành.../ Nghe vang vỡ cái bất bình thành thơ! (Độc hành ca).

Đằng sau tâm trạng cảm khái của ông không phải là những bùi ngùi, tiếc nuối thường thấy trong thơ cổ mà là những nỗi niềm u uất, những day dứt khôn nguôi về tình đời, tình người giữa thực tại không thoả mãn. Đôi khi, ta thấy giọng thơ ông bi tráng, tiềm ẩn những tâm sự, những nỗi ưu tư dằn vặt. Dường như đó không phải là tâm trạng ngoại lệ mà là tâm trạng phổ biến của những tâm hồn thi sĩ nhạy cảm đã bắt đầu nhận thấy một điều gì đó đang diễn ra, đang đến gần. Có lúc, ta bắt gặp nhà thơ rầu rĩ trong đau khổ, tiều tụy trong cô quạnh và bần hàn. Nhưng nhiều lúc ta thấy ông như bừng tỉnh cơn say, trong chiều loạn “mỏi mòn chính khí lạc loài thơ” đã giác ngộ: Nghĩa lớn ai mua bán chợ chiều/ Dập vùi hoa lá biết bao nhiêu/ Hãy cùng chiến địa chung trang giấy/ Cất bút cho dòng chữ kiếm reo (Chiều loạn).

Thâm Tâm thường xúc cảm day dứt về những cuộc ra đi. Thơ ông mang cốt cách cổ điển, in đậm âm hưởng bi phẫn, giang hồ. Ba bài thơ viết theo thể hành bộc lộ rõ giọng thơ này: Tống biệt hành, Can trường hành, Vọng nhân hành. Nguyễn Bính thường lưu luyến với cảnh xưa người cũ nơi thôn dã, quê mùa đầy tâm sự bi phẫn, u uất.

Và khi đụng tới những vấn đề lớn của đất nước, Trần Huyền Trân đã có những câu thơ hừng hực hào khí: Khói lửa bốc hoa tay kẻ sĩ/ Bốn phương về thảo chính khí ca (Đi trên đường Hà Nội sau ngày Tuyên ngôn độc lập 1945); Hay Hải Phòng cuồn cuộn dâng như biển/ Nước mặn đồng chua thêm máu người (Hải Phòng, 11.1946).

Có lẽ, đó là thứ ánh sáng bên trong dẫn dắt ông đến với Văn hóa Cứu quốc, đến với Đề cương văn hóa Việt Nam (1943) và đến với những nhà văn, nhà thơ một lòng một dạ dành tâm huyết của đời mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng.

Hãy tạm gạt sang một bên hơi thơ có vẻ cổ kính, ý thơ nhiều khi khác lạ để trân trọng một hồn thơ nhạy cảm và tài hoa. Hình ảnh trước tiên là hình ảnh của chính bản thân ông - một nhà thơ lầm lì, gân guốc, nhiều u uất và dự cảm. Ông hay bộc lộ tâm sự, hay độc thoại và có lúc ngơ ngác trước thời cuộc. Nhưng chưa khi nào ông tỏ ra ủy mị, yếu đuối. Ta luôn luôn thấy ở ông những nghiền ngẫm, những do dự, những băn khoăn về lẽ đời, lẽ người, những trăn trở về hành động, những định liệu về các cuộc ra đi đến một nơi nào đó mà chính ông cũng còn chưa ý thức được một cách thật rõ ràng. Một loạt bài như Mưa đêm lều vó, Tha hương, Lưu biệt, Chiều mưa xứ Bắc gửi người xứ Nam... đã phần nào nói đến tâm thế ấy của nhà thơ.

Hình như họ kết bạn với nhau không chỉ vì tài hoa mà còn vì những tù túng đói nghèo, những kỷ niệm rau cháo trong lều tranh, xóm chợ. Chỉ riêng thơ tặng bạn, tặng người thân của ông đã “Bắc cả thiên thu một nhịp cầu”. Điều đáng quý là giữa hai phong cách thơ Nguyễn Bính và Thâm Tâm, Trần Huyền Trân vẫn giữ được bản sắc riêng độc đáo. Thơ Trần Huyền Trân vừa phảng phất cái dư vị ngâm vịnh của người xưa, vừa gần gũi với đời thường. Có những lúc ông hình dung ra mình được ngồi uống rượu với Tản Đà để giao cảm với tiền nhân: Cụ hâm rượu nữa đi thôi/ Be này chừng sắp cạn rồi còn đâu/ Rồi lên ta uống với nhau/ Rót đau lòng ấy vào đau lòng này (Uống rượu).

Kể từ thời Thơ mới cho đến nay, những câu thơ tả thực tâm trạng của con người thật như thế này cũng không phải là nhiều. Lại có những lúc, với một người đàn bà yêu thơ nào đó, ông bộc bạch: Tim tôi chiếc lá dâu xanh/ Tằm đời ăn rỗi trơ cành còn chi (Thưa bà).

Hình như đó là lúc thi nhân cảm thấy thấm thía nỗi buồn về sự đen bạc của cuộc đời. Song, khác với Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân đã khước từ được sự mời mọc của những cuộc giang hồ. Ông đến với Cách mạng sau rất nhiều những dự định lưu biệt, ra đi. Điều đó phù hợp với những gì đã từng khiến ông day dứt, “say ca” và “bốc máu lên”, khi “chân trời đã rạng”. Những năm cuối đời, khi đã bước vào tuổi 70, Trần Huyền Trân vẫn có những câu thơ đẹp nói về đất nước mà hồn thơ ông đã suốt đời gắn bó: “Cho xanh gốc tự do/ Cho xanh trời độc lập/ Cho bông hoa nhỏ nhất/ Cũng thơm suốt đời hoa/ Ngẫm người ta hóa đất/ Tưới nước mắt yêu thương/ Thơ mang tình đất nước/ Vẫn vô tận nguồn hương”. 

 PGS.TS LƯU KHÁNH THƠ

Ý kiến bạn đọc