Nghiên cứu cơ chế chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên ở Việt Nam

VHO- Tại Việt Nam, chi trả dịch vụ môi trường rừng đã được triển khai thành công trong hơn một thập kỷ qua, góp phần tăng nguồn lực tài chính cho bảo vệ và phát triển rừng. Những bài học kinh nghiệm từ chi trả dịch vụ môi trường rừng là cơ sở để nhân rộng cơ chế tương tự cho các hệ sinh thái khác, trong đó có môi trường biển và đất ngập nước.

Ngày 13.6, Bộ TN-MT và UNDP tổ chức hội thảo kỹ thuật về “Đánh giá và thúc đẩy cơ chế chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên tại Việt Nam”. Tại hội thảo, nhóm nghiên cứu của UNDP và Viện Chiến lược chính sách, tài nguyên và môi trường trình bày một báo cáo cơ sở cho việc “xây dựng đề án chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên cấp tỉnh và cấp cơ sở cũng như chuẩn bị đề án thí điểm cơ chế chi trả dịch vụ hấp thụ và lưu trữ các-bon đối với hệ sinh thái biển và hệ sinh thái đất ngập nước”.

Nghiên cứu cơ chế chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên ở Việt Nam - Anh 1

PGS.TS Nguyễn Đình Thọ, Viện trưởng Viện Chiến lược, chính sách Tài nguyên và Môi trường phát biểu tại hội thảo

Chi trả dịch vụ hệ sinh thái (PES) đã được công nhận rộng rãi như một công cụ chính sách thành công để quản lý tài nguyên thiên nhiên ở hơn 60 quốc gia. Tổng số tiền chi trả hàng năm của các chương trình PES trên toàn thế giới trên 36 tỷ USD.

Mặc dù Việt Nam đã triển khai các sáng kiến "giống như PES" cho các hệ sinh thái biển và đất ngập nước, nhưng hiện tại vẫn chưa có chi trả toàn diện cho dịch vụ hệ sinh thái biển và đất ngập nước. Một số áp dụng PES trong thực tiễn như: Thu phí dịch vụ tham quan đối với các khu vực biển và vùng đất ngập nước được bảo vệ, mô hình đồng quản lý nguồn lợi thủy sản, hay phát triển các phương pháp nuôi trồng thủy sản thân thiện với môi trường ở một số vùng ven biển với sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế và các ngành liên quan.

Báo cáo của nhóm nghiên cứu đã tổng kết và phân tich các kinh nghiệm và thực hành tốt về PES ở các nước như Trung Quốc, Đông Phi, khu vực Châu Âu, Costa Rica và các mô hình thực tiễn ở Việt Nam. Báo cáo nhấn mạnh rằng sự thành công của các chương trình PES phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau và có thể không phải lúc nào cũng tối ưu hóa chi phí. Các chương trình này hoạt động tốt nhất khi các dịch vụ được xác định rõ ràng, những người thụ hưởng được tổ chức tốt và các cộng đồng quản lý đất đai và tài nguyên có quyền sở hữu rõ ràng và khung pháp lý vững chắc. Các hệ thống PES chủ yếu tập trung vào các dịch vụ hệ sinh thái/môi trường có giá trị cao đối với người hưởng lợi và chi phí cung cấp dịch vụ thấp. Các dịch vụ đầu nguồn, dịch vụ môi trường rừng, bảo tồn đa dạng sinh học, hấp thụ các-bon và vẻ đẹp cảnh quan là những mục tiêu chính của các chương trình PES trên toàn cầu.

Báo cáo cũng đưa ra một số khuyến nghị chính trong khuôn khổ Dự án BES-Net giai đoạn II. Các khuyến nghị này bao gồm xây dựng tiêu chí và phương pháp đánh giá dịch vụ hệ sinh thái biển và đất ngập nước quốc gia, hỗ trợ đánh giá và đánh giá dịch vụ hệ sinh thái ở cấp cơ sở, lập bản đồ hiện trạng dịch vụ hệ sinh thái biển và đất ngập nước ở Việt Nam, xây dựng hướng dẫn cho cấp tỉnh và cấp cơ sở đề án cơ chế chi trả, thí điểm chi trả dịch vụ hệ sinh thái đối với hệ sinh thái biển và đất ngập nước, hoàn thiện chính sách, quy định về chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên, trọng tâm là hệ sinh thái biển và đất ngập nước.

Phát biểu tại hội thảo, PGS.TS Nguyễn Đình Thọ, Viện trưởng Viện Chiến lược chính sách Tài nguyên và Môi trường nhấn mạnh tầm quan trọng của những đóng góp, ý kiến của chuyên gia đối với kết quả nghiên cứu và đề xuất cơ chế, chính sách. “Để kết quả nghiên cứu này hoàn thiện hơn, cung cấp tài liệu tham khảo tốt cho Viện trong đề xuất cơ chế, chính sách về chi trả dịch vụ hệ sinh thái biển và đất ngập nước, chúng tôi mong muốn các chuyên gia, nhà khoa học và quý vị đại biểu đóng góp, phản biện về kết quả nghiên cứu, đặc biệt là các đề xuất kiến nghị cũng kế hoạch triển khai sắp tới đảm bảo tính khả thi, hiệu quả áp dụng", ông Nguyễn Đình Thọ nói.

X.QUANG

 

Ý kiến bạn đọc